Bretton woods là gì

Bretton Woods là gì? Nguyên nhân hệ thống Bretton Woods sụp đổ

Bretton woods là gì? Đây là một hệ thống có sức ảnh hưởng vô cùng lớn đối với nền kinh tế thế giới ở thế kỷ 20. Hệ thống Bretton Woods đã mang lại vô vàn tác động tích cực trong việc duy trì ổn định nền kinh tế và thiết lập nên một trật tự kỷ luật tiền tệ thế giới lúc bấy giờ. Thế nhưng vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ? Nguyên nhân của sự sụp đổ này cũng như sự ra đời và các đặc điểm của hệ thống Bretton Woods sẽ được Exness chia sẻ ngay sau đây.

Hệ thống Bretton Woods là gì? Hệ thống tiền tệ Bretton Woods ra đời như thế nào?

Hệ thống Bretton Woods được ra đời và tồn tại từ năm 1944 cho đến năm 1976. Hệ thống Bretton Woods được biết đến là một hệ thống tiền tệ quốc tế và những định chế tài chính khác sử dụng đồng USD (đô la Mỹ) nhằm thay thế cho một thước đo duy nhất để lưu trữ dự trữ và thanh toán tiền tệ quốc tế.

Trước khi có sự ra đời của hệ thống Bretton Woods, thước đo tài chính duy nhất để phục vụ cho việc trao đổi tiền tệ đó chính là vàng. Tỷ giá hối đoái của đồng tiền mỗi một quốc gia sẽ được đặt ra một cách độc lập tương ứng với giá trị của vàng. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đã nổ ra cho thấy nền kinh tế thế giới cần phải nâng cấp hệ thống tiền tệ. Đặc biệt là các cuộc khủng hoảng về kinh tế và nghiêm trọng nhất đó chính là Chiến tranh thế giới thứ 2.

Việc lấy vàng làm thước đo và trao đổi tiền tệ đã bắt đầu được nhiều quốc gia từ bỏ. Tức là, những quốc gia này từ bỏ việc chuyển đổi đồng tiền tệ chính của quốc gia sang vàng. Không những thế, trong giai đoạn lúc bấy giờ cũng thường xuyên xảy ra việc phá giá tiền tệ. Điều này đã khiến nền kinh tế thế giới có nhiều bất ổn.

Tháng 7/1944, trước khi chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ 2. Tại một khu nghỉ mát ở Bretton Woods, 44 quốc gia đồng minh khi đó đã tập trung lại với nhau. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ cũng đã tham gia Hội nghị Tài chính và Tiền tệ của Liên hợp quốc để thảo luận về sự ra đời của một trật tự tiền tệ quốc tế khác.

Hội nghị Tài chính và Tiền tệ của Liên hợp quốc
Hội nghị Tài chính và Tiền tệ của Liên hợp quốc

Hội nghị được diễn ra với những mục tiêu to lớn như sau:

  • Nền kinh tế toàn cần cần phải được khôi phục.
  • Tránh lặp lại các sai phạm trước đây bằng cách cải tổ lại hệ thống tiền tệ quốc tế.
  • Thương mại quốc tế cần được tạo điều kiện thuận lợi hơn. Và đối với các quốc gia riêng lẻ vẫn sẽ bảo vệ các mục tiêu về chính sách tự trị của họ.
  • Hình thành nên một trật tự tiền tệ quốc tế mới để trên phạm vị quốc tế sẽ không còn xảy ra sự tan rã của các mối quan hệ tiền tệ như những năm 1930.

Để hình thành nên một hệ thống tiền tệ mới, chúng cần phải đáp ứng đầy đủ những mục tiêu như sau:

  • Cần phải thành lập nên một tổ chức quốc tế độc lập có các quyền hạn và chức năng nhất định đối với những tổ chức và hợp tác quốc tế liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ.
  • Chế độ tỷ giá hối đoái cần phải thực hiện nghiêm túc việc xác định cố định trong ngắn hạn. Tuy nhiên, khi tình trạng mất cân đối cơ bản xuất hiện thì vẫn có thể điều chỉnh được.
  • Gia tăng vàng để dự trữ quốc tế được tăng cường. Đồng thời, để tỷ giá cố định được đảm bảo điều chỉnh hoạt động hiệu quả thì cũng cần phải tăng cường các nguồn dự trữ.

Tại hội nghị này, các luồng quan điểm trái chiều cũng bắt đầu xuất hiện do bị Anh và Mỹ chi phối lợi ích. Vào thời điểm lúc bấy giờ, đây chính là hai cường quốc kinh tế vĩ đại.

Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ 2, sự tàn phá nặng nề đã đưa các nước châu Âu rơi vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Khi đó, một số nợ khá lớn đã đổ lên Anh quốc. Vì vậy để không bị lệ thuộc vào Mỹ nữa, Anh đã mong muốn việc thả nổi tự do tỷ giá hối đoái. Điều này giúp cho tỷ giá hối đoái được linh hoạt hơn và giúp cán cân thanh toán được cải thiện hơn khi nó đang nghiêng hẳn về một phía đó chính là Anh.

Trong khi đó, trong vòng hai thập kỷ đầu sau chiến tranh Mỹ lại có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mỹ đã từng bước trở thành trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất trên thế giới. Và hơn hết, khi đó Mỹ đang sở hữu khoảng 70% lượng vàng trên tổng lượng dự trữ vàng toàn cầu.

Là một chủ nợ lớn trên thế giới, Mỹ luôn có mong muốn mở cửa thị trường để xuất khẩu ra thế giới. Đồng thời, khi tỷ giá cố định có sự ổn định, Mỹ còn muốn ưu tiên cho việc tạo ra các thuận lợi cho thương mại tự do.

Sau cùng, hội nghị kết thúc với một thỏa ước quốc tế có tên Chế độ tiền tệ Bretton Woods với cơ sở xây dựng chủ yếu là của Mỹ.

Đặc điểm và các quy tắc của bản của Bretton Woods

Sử dụng Hệ thống chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hạn chế để thay thế Bản vị vàng (Gold Standard)

Đồng Đô la Mỹ được công nhận là đồng tiền chuẩn hay còn gọi là tiền tệ quốc tế. Nó được dùng để thanh toán quốc tế và làm phương tiện dự trữ. Đặc biệt, sẽ không bị hạn chế việc dùng đồng USD trong ngoại thương và thanh toán quốc tế.

Trong khuôn khổ hệ thống Bretton Woods (BWS), chế độ tỷ giá được đưa ra dựa trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc của chế độ bản vị vàng hối đoái. Tỷ giá này sẽ gắng đồng USD với tất cả tiền tệ khác. Còn đồng USD sẽ được gắn liền với vàng.

Nói một cách dễ hiểu hơn, giữa đồng tiền các quốc gia với nhau sẽ có tỷ giá trao đổi cố định được tính thông qua bản vị vàng của thế giới với giá vàng cố định và đã được chuẩn hóa. Giữa các ngân hàng trung ương của các quốc gia sẽ có sự mua lại, bán đi hoặc có thể là vay mượn vàng lẫn nhau. Điều này giúp các quốc gia kịp thời giữ được giá của đồng tiền thông qua việc mua vào và bán ra trong thị trường nội địa.

Theo hệ thống Bretton Woods, tương ứng với một giá vàng và với đồng đô la Mỹ, mỗi quốc gia sẽ xây dựng riêng cho mình một chính sách ngang giá. Trong đó, đồng đô la Mỹ sẽ bằng 35$ = 1 ounce, tức là nó được định giá theo vàng.

Hệ thống Bretton Woods
Hệ thống Bretton Woods

Hệ thống Bretton Woods thực chất chính là một thỏa thuận hướng về việc nắm giữ giá đồng tiền của các quốc gia theo giá vàng và đồng thời nó cũng chống lại lạm phát giá cả.

Hệ thống này đã được triển khai thực hiện vào năm 1946. Để hệ thống Bretton Woods nhận được một sự tin cậy tuyệt đối thì cố định giá vàng và giá USD chính là một ý tưởng cần phải thực hiện.

Vào năm 1945, so với lượng dự trữ vàng của thế giới Mỹ đã nắm giữ xấp xỉ 70%. Vì vậy, các ngân hàng trung ương nước ngoài hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào Mỹ và sẵn sàng dự trữ nhiều hơn bằng cách nắm giữ USD. Không những thế, Mỹ cũng cam kết sẽ duy trì việc không hạn chế chuyển đổi USD ra vàng với mức giá cố định 35 USD/ounce.

Việc dự trữ quốc tế chính thức của các nước thành viên sẽ được duy trì rộng rãi thông qua hình thức vàng hoặc các tài sản bằng USD. Ngoài ra, họ còn có quyền bán USD theo giá vàng chính thức cho Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Theo quy định của hệ thống, các quốc gia khác phải chấp thuận nguyên tắc gắn đồng tiền của quốc gia mình với đồng USD. Từ đó, cũng sẽ phải gắn gián tiếp với vàng và chỉ khi được quỹ tiền tế quốc tế đồng ý thì mới được phép thay đổi các mức ngang giá chính thức này.

So với ngang giá đã được thỏa thuận, mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm trong việc giữ vững tỷ giá hối đoái luôn trong khoảng dao động 1% bằng cách bán và mua ngoại hối khi cần thiết.

Mặc dù là vậy nhưng trong thỏa thuận của hệ thống Bretton Woods cũng quy định rằng các mức ngang giá này (có thể là nâng giá hoặc phá giá đồng tiền) chỉ được phép thay đổi trong và chỉ trong trường hợp xảy ra sự mất cân đối về thanh toán quốc tế nghiêm trọng.

Tổ chức IMF và IBRD hay WB được hình thành

IMF và WB hình thành từ Bretton Woods
IMF và WB hình thành từ Bretton Woods

Hệ thống Bretton Woods có phần cốt lõi quan trọng đó chính là thành lập nên hai tổ chức sau:

  • International Monetary Fund (IMF) với tên gọi là Quỹ tiền tệ thế giới.
  • IBRD (International Bank for Reconstruction and Development) còn được gọi là Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế. hoặc có tên khác là World Bank (WB) – Ngân Hàng thế giới.

Phần lớn các quốc gia đều phê chuẩn thỏa ước này. Và vào năm 1945, IMF chính thức hoạt động.

IMF ra đời với mục tiêu giám sát cũng như thúc đẩy trong việc hợp tác quốc tế đối với các lĩnh vực tiền tệ. Đồng thời, nó cũng xúc tiến cho việc tăng cường thương mại thế giới. Trong công việc thúc đẩy thương mại, IMF có các nhiệm vụ cơ bản như sau:

  • Phải đảm bảo rằng hệ thống chế độ tỷ giá cố định luôn được hoạt động một cách hiệu quả và trơn tru.
  • Nhu cầu phá giá đồng tiền đến từ các quốc gia thành viên phải được giảm thiểu tối đa nhất. Điều này sẽ được thực hiện thông qua việc cung cấp một hạn mức tín dụng thường xuyên cho mỗi quốc gia thành viên. Mục đích của việc làm này đó chính là tài trợ khi cán cân thanh toán xảy ra thâm hụt tạm thời.

IMF sẽ không được trao quyền lực như một ngân hàng trung ương thế giới vì các quốc gia trong hệ thống Bretton Woods không chấp nhận điều này. Đồng thời, việc in tiền và sử dụng các chính sách tiền tệ để tác động đến nền kinh tế là điều mà IMF không thể làm được.

IBRD hay còn được gọi với tên khác là WB sẽ là tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm cho việc tài trợ các dự án phát triển. Đồng thời sau chiến tranh, các quốc gia Châu Âu cũng sẽ được IBRD hỗ trợ phục hồi nền kinh tế. Hay huy động nguồn vốn từ các quốc gia phát triển sau đó cho những quốc gia nghèo, kém phát triển với lãi suất thấp để nền kinh tế của họ được phát triển hơn.

Hệ thống Bretton Woods đã có những tác động tích cực đến nền kinh tế thế giới

Có thể thấy chế độ bản vị vàng đều được phần lớn các quốc gia theo kể từ Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, để có thể chi trả cho chiến tranh, các quốc gia này đã giải quyết bằng việc in tiền. Và chính điều này đã phá vỡ các quy tắc đã được đặt ra trước đó. Vì lượng cầu tiền quá nhỏ so với lượng cung cho nên một sự siêu lạm phát đã xảy ra. Từ đó, tiền tệ đã không còn giá trị và giảm mạnh vô cùng. Ở một vài nơi, để có được một ổ bánh mì, người dân phải cần đến cả một xe cút kít chở đầy tiền. Do vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, chế độ bản vị vàng an toàn lại được các quốc gia sử dụng trở lại.

Nhưng vào năm 1920, sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ thì một cuộc Đại suy thoái đã xảy ra và mọi chuyện bắt đầu tồi tệ. Tại thời điểm này, các nhà đầu tư sẽ dần chuyển sang các giao dịch hàng hóa và ngoại hối. Từ đó, giá vàng đã bị đẩy lên cao và trên khắp các nước người dân đều đổ xô đi mua vàng.

Mọi chuyện lại trở nên tồi tệ hơn nữa khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ gia tăng lãi suất vì cho rằng đây là cách bảo vệ việc dự trữ vàng quốc gia. Và ngay sau đó, các quốc gia bằng đầu từ bỏ việc sử dụng chế độ bản vàng.

Nếu như chế độ bản vị vàng khá cứng nhắc và ít tạo ra các biến động thì hệ thống Bretton Woods ra đời đã mang đến sự linh hoạt hơn cho các quốc gia. Đặc biệt, nếu như tài khoản vãng lai bị mất cân bằng thì điều này vẫn sẽ được điều chỉnh thông qua việc thay đổi giá trị tiền tệ khi các quốc gia cảm thấy cần thiết.

Sự ra đời của hệ thống này đã mang đến nhiều sự tác động tích cực về việc ổn định tỷ giá hối đoái. Đồng thời, nền thương mại quốc tế nói riêng và nền kinh tế thế giới nói cũng cũng được cải thiện hơn.

Nguồn dự trữ của các quốc gia đi theo hệ thống Bretton Woods sẽ dưới dạng tiền tệ của một quốc gia duy nhất. Và chỉ có quốc gia này mới thực sự chọn con đường đi theo chế độ bản vị vàng. Các quốc gia thành viên khi sử dụng hệ thống này sẽ tiết kiệm được vàng. Bởi vì phương tiện thanh toán quốc tế của họ có thể sử dụng ngoại hối hoặc vàng.

Ngoài ra khi nắm giữ ngoại hối, hệ thống này sẽ mang lại thu nhập cho các quốc gia. Trong khi đó, việc cất giữ vàng hầu như không mang lại bất kỳ một nguồn thu nhập nào. Ngoài ra, hệ thống Bretton Woods còn giúp các quốc gia giảm thiểu được các khoản chi phí giao dịch đến từ việc di chuyển vàng giữa quốc gia này với quốc gia kia với nhau. Trong suốt những năm 50, 60, khi tỷ giá hối đoái ổn định thì việc dự trữ tiền tệ quốc tế được cung ứng dồi dào cũng đã mang lại nhiều điều thuận lợi cho việc đầu tư và mậu dịch quốc tế.

Hệ thống Bretton Woods và quá trình hoạt động

Như vậy, có thể thấy Bretton Woods là gì đã mang lại rất nhiều thuận lợi cho các quốc gia và thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thế giới. Đối với hệ thống này, quá trình hoạt động của nó được chia ra là giai đoạn:

  • Từ năm 1940 – 1958: Giai đoạn “Đói USD”.
  • Từ năm 1959 – 1971: Giai đoạn “Bội thực USD”.

Giai đoạn 1940 – 1958

Bằng việc bán vũ khí cho các nước tham chiến trong Thế chiến II, sau khi chiến tranh kết thúc Hoa Kỳ đã mang về cho mình một lượng vàng khổng lồ. Chính vì điều này mà Hoa Kỳ đã có nguồn dự trữ vàng chiếm 70% so với tổng sản lượng dự trữ thế giới (tương đương 26 tỷ USD) khi chiến tranh kết thúc. Do đó, lúc này giá vàng và đồng USD được coi là ngang hàng nhau.

Bên cạnh đó thì Châu Âu lại đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề sau khi bị chiến tranh tàn phá. Và để phục hồi kinh tế chiến tranh, nhập khẩu các thứ cần thiết thì châu Âu đã thông qua kế hoạch mang tên Marshall để có được một khoản tín dụng lớn. Khi đó, 16 nước Tây Âu đã nhận được gần 17 tỷ Mỹ kim. Nhờ vào động thái này mà tình trạng thiếu đô la đã được giảm thiểu đáng kể. Ngoài ra, việc giảm thặng dư thương mại Mỹ cũng đã giúp cân bằng cạnh tranh được khôi phục.

Ở những năm cuối của giai đoạn này, một số dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Mỹ bắt đầu khủng hoảng xuất hiện.

Giai đoạn 1959 – 1971

Sau khi thành công với công cuộc tái thiết, các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế vô cùng mạnh mẽ và dần đi vào ổn định cũng như bắt đầu có sự tăng trưởng mạnh. Nhu cầu chuyển đổi USD sang vàng cũng được sinh ra khi nguồn dự trữ USD của các nước này ở Ngân hàng trung ương tăng lên.

Cũng tại lúc này, tình trạng bán vàng trên thị trường tự do đã bắt đầu xảy ra do các nhà đầu cơ mua vàng ở Ngân hàng trung ương. Nguyên nhân là do tại Ngân hàng trung ương giá vàng vẫn được duy trì ở mức 35$/ounce. Trong khi đó, trên thị trường tự do giá vàng lại biến động hàng ngày theo cung-cầu.

Ngoài ra, khi nền kinh tế Nhật Bản và các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ thì giá trị đồng tiền của các quốc gia này cũng tăng lên theo. Đồng USD từ đó cũng bị giảm sút niềm tin. Thay vì đồng Mỹ Kim thì nguồn vốn cũng dần dần được chuyển sang các đồng tiền khác có giá trị mạnh mẽ hơn.

Vào năm 1971, thông qua Hiệp định Smithson, việc chuyển đổi USD sang vàng đã được Hoa Kỳ đưa ra tuyên bố ngừng lại và đây cũng là lần đầu tiên phá giá đồng USD. Nếu như lúc trước là 35$ thì bây giờ giá vàng chính thức sẽ là 38$/ounce.

Tuy nhiên, sự tồn tại của Hiệp định Smithson chỉ kéo dài được hơn 1 năm. Sau khi đồng USD được Mỹ phá giá lần thứ 2 thì loại đồng này đã xảy ra khủng hoảng vào đầu năm 1973. Việc bãi bỏ mức ngang giá chính thức với đồng USD đã được các quốc gia công nghiệp chủ chốt đồng loạt thực hiện. Và thay vào đó, họ sẽ thả nổi độc lập đồng tiền của quốc gia mình.

Chính vì điều này, việc cải tổ hệ thống Bretton Woods chính thức bị thất bại hoàn toàn. Và đây cũng là lý do vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ.

Hệ thống Bretton Woods sụp đổ

Hệ thống Bretton Woods sụp đổ
Hệ thống Bretton Woods sụp đổ

Tính bất ổn và sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods

Nguồn cung USD đã tăng lên nhanh chóng nhờ vào chính sách tiền tệ mở rộng của Hoa Kỳ. Cộng thêm với việc gia tăng sự cạnh tranh giữa các quốc gia thành viên khác đã làm cho cán cân thanh toán sớm bị đảo ngược.

Với tham vọng to lớn của mình, Mỹ muốn cả thế giới sẽ dự trữ đô la Mỹ thay vì dự trữ vàng. Trong khi đó, với mong muốn duy trì sự cân bằng cho thế giới, Mỹ đã suy giảm lượng dự trữ vàng và kéo theo đó là những thâm hụt. Điều này đã khiến cho sự ổn định của hệ thống Bretton Woods bị dọa.

Trong những năm 60 và 70, nền kinh tế Mỹ đã không còn sự phát triển nhanh chóng như nền các nước Tây Âu. Cán cân thanh toán của Mỹ khi đó bội chi và khiến cho đồng USD liên tục mất giá.

Đúng là hệ thống Bretton Woods đã có được phần nào thành công đối với việc giúp nền kinh tế giới giới phát triển hơn. Và nó cũng hạn chế được sự khủng hoảng tài chính vào những năm hệ thống vừa ra đời cho đến giữa những năm 60. Tuy nhiên, về cuối cùng nó lại được cho là không có sự linh hoạt trong việc đối phó với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản và Đức. Nó cũng cho thấy sự miễn cưỡng của Mỹ khi đưa ra các quyết định về điều chỉnh chính sách kinh tế trong quốc gia mình nhằm duy trì được bản vị vàng.

Nhu cầu sử dụng tiền so với lượng vàng đang sở hữu lại lớn hơn rất nhiều, vì vậy hệ thống Bretton Woods đã giới hạn các hoạt động chi tiết của toàn thế giới cũng như của riêng Hoa Kỳ. Để tài trợ cho các nước chiến tranh, trong đó có Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã cho in rất nhiều tiền. Vì vậy, việc này đã gia tăng lạm phát và khiến cho đồng tiền USD bị mất giá.

Trong ngắn hạn, các biện phạm khắc phục để duy trì hệ thống là khá hiệu quả. Tuy nhiên, trong lâu dài thì không. Toàn bộ hệ thống Bretton Woods bị đe dọa bởi vấn đề Triffin. Đặc biệt là sau năm 1965, vấn đề này lại càng trở nên trầm trọng hơn do Hoa Kỳ đã mở rộng chính sách tiền tệ và tài khóa khiến cho lạm phát ngày càng tăng lên.

Để sự bất hợp lý trên được xóa bỏ, Tổng thống Hoa Kỳ khi đó là Nixon vào tháng 8/1971 đã quyết định rút ra khỏi hệ thống Bretton Woods và thả nổi đồng tiền USD. Đi kèm theo đó là sự tan rã của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định.

Ngay sau đó, đồng USD hạ giá và các nhà lãnh đạo trên thế giới đã thực hiện một Hiệp định có tên là Smithson vào năm 1971 với mong muốn khôi phục lại hệ thống Bretton Woods. Tuy nhiên, sự cố gắng này đã không được thành công. Đến năm 1971, việc tỷ giá hối đoái thả nổi đã được các quốc gia khác và Hoa Kỳ chấp nhận.

Đến năm 1976, hệ thống Bretton Woods hoàn toàn bị chấm dứt. Kế tiếp sau đó, hệ thống tiền tệ Jamaica được thông qua và cho đến nay vẫn còn hệ lực. Theo như hệ thống Jamaica, vàng sẽ không còn được gắn với tỷ giá hối đoái nữa và tỷ giá này sẽ được thả nổi. Đồng nghĩa rằng vị thế tiền tệ chính trên thế giới sẽ không còn là USD mà thay vào đó là sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của các loại tiền tệ khác.

Mặc dù hệ thống Bretton Woods đã bị sụp đổ, WB và IMF cũng bị các quốc gia đã và đang phát triển chỉ trích gay gắt. Tuy nhiên, MB và IMF vẫn được duy trì tồn tại và hoạt động bình thường cho đến ngày nay.

Nguyên nhân hệ thống Bretton Woods sụp đổ là gì?

Theo vị giáo sư Robert Triffin, khi đồng tiền USD được xem như là tiền tệ chính của quốc tế thì khi đó Mỹ đã bị rơi vào tình thế khó xử đối với việc thanh toán cơ bản.

Ông cho rằng, nhu cầu sử dụng USD sẽ nhiều hơn nữa khi nền kinh tế phát triển và chắc hẳn khi đó Mỹ phải chấp nhận việc cán cân thanh toán bị thâm hụt. So với lượng USD mà các quốc gia khác đang sở hữu thì lượng dự trữ vàng của mỹ lại ít hơn nhiều. Điều này cho thấy Mỹ sẽ rất khó để bảo đảm chắc chắn cho việc chuyển đổi USD quốc tế sang vàng. Từ đó, quốc gia này mất dần uy tín và đó là lý do vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ.

Một lý do nữa để giải thích cho sự sụp đổ này chính là vào năm 1965, ở Mỹ bắt đầu gia tăng lạm phát. Trước năm đó, Cục Dự trữ Liên bang luôn đảm bảo và duy trì mức lạm phát thấp nhất. Tuy nhiên từ năm 1965, chính sách lạm phát kéo dài của Fen Martin đã bắt đầu và kéo dài đến những năm 1980. Đặc biệt nhất là đại lạm phát vào năm 1970.

Như vậy, có thể thấy hệ thống Bretton Woods sụp đổ với nguyên nhân chính là do đồng USD bị Mỹ phá giá. Nhưng khi đi sâu vào, có thể thấy hệ thống này gặp phải nhiều vấn đề về thanh khoản và nó không có một cơ chế phù hợp để điều chỉnh. Đây chính là mầm mống cho sự đổ vỡ của hệ thống Bretton Woods.

Hệ thống này tồn tại được là nhờ vào sự tin tưởng có một sự duy trì về nội dung vàng của đồng đô la. Thế nhưng, dự trữ vàng đang có nguy cơ biến mất để đáp ứng được nhu cầu bù đắp sự thiếu hụt trong cán cân thương mại của các quốc gia (tức là duy trì sự ngang giá với USD) đã khiến cho cam kết chuyển đổi USD sang vàng bị chấm dứt. Không những thế, khi các biện pháp nhằm cải thiện cán cân thanh toán được Mỹ áp dụng thì hệ thống sẽ thiếu hụt thanh khoản. Điều này tạo nên một áp lực vô hình khiến nền kinh tế thế giới giảm phát triển. Vì vậy, hệ thống này sụp đổ là một hệ quả tất yếu không thể tránh khỏi. 

Kết luận

Như vậy, Bretton Woods là gì và vì sao hệ thống Bretton Woods sụp đổ đã được chuyên mục Exness Hướng Dẫn giải đáp một cách chi tiết nhất qua bài viết này. Mặc dù đã không còn tồn tại nữa, nhưng hệ thống Bretton Woods là một di sản quý giá mà nhân loại có được cho đến ngày hôm nay. Với những kiến thức vừa rồi, hy vọng bạn sẽ có thêm được các kiến thức, thông tin giá trị về tỷ giá hối đoái trên thế giới nhé.

Xem thêm:

Các nhược điểm của floating exchange rate (tỷ giá thả nổi) là gì?

Giao dịch treasury stock ở đâu? Thông qua thị trường nào?

Ví dụ minh họa cách xác định Củ Nảy Mèo Chết theo độ sâu và độ cao

Lưu ý đối như thế nào với báo cáo đơn hàng Durable goods?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *